Wednesday, August 28, 2024

Tiệp Khắc CZECHOSLOVAKIA 1918- 1992 - The Czech Republic, Slovakia 1-1-1993 - Today

Cộng hòa Séc bao gồm các vùng lịch sử Bohemia (ở phía tây) và Moravia (ở phía đông). Đây là quốc gia Slav cực tây, hướng như một mũi tên vào lãnh thổ của nước láng giềng lớn nhất là Đức. Về phía nam, nước này giáp Áo, về phía bắc giáp Ba Lan, trong khi về phía đông, một biên giới mới đã chia cắt nước này với Slovakia, đối tác cũ của nước này tại Tiệp Khắc kể từ năm 1993.

Thủ đô của nước này, Prague, là một trong những thành phố đẹp nhất châu Âu. Ngay cả dưới thời Cộng sản, Prague đã thu hút được một lượng lớn du khách nước ngoài; sau năm 1989, số lượng du khách tăng lên rất nhiều, khiến thành phố này trở thành một trong những điểm đến nghỉ dưỡng ngắn ngày phổ biến nhất thế giới. 

Phần còn lại của đất nước ít được ưa chuộng hơn, mặc dù có một số điểm nóng như viên ngọc thời trung cổ của Ceský Krumlov. Tuy nhiên, trong phạm vi nhỏ bé của mình, đất nước nhỏ bé này có rất nhiều điều để cung cấp. Cảnh quan đa dạng của nó bao gồm những ngọn núi trọc, vùng cao nguyên rừng rậm hùng vĩ, hẻm núi sông, các khối đá đáng chú ý và hệ thống hang động ngoạn mục, nhưng tài sản lớn nhất của nó là do con người tạo ra; di sản của những thị trấn lịch sử và những tòa nhà đẹp là ít nơi nào sánh bằng ở châu Âu, và đây là kho tàng tác phẩm của nhiều nghệ sĩ thuộc mọi thể loại.


The Czech Republic comprises the historic regions of Bohemia (in the west) and Moravia (in the east). It is the westernmost Slav country, pointing like an arrow into the territory of its largest neighbour, Germany. To the south it borders Austria, to the north Poland, while to the east a new frontier has separated it since 1993 from Slovakia, its one time partner in Czechoslovakia.

Its capital city, Prague, is one of the most beautiful cities in Europe. Even under Communism, Prague had attracted its fair share of foreign visitors; after 1989, their numbers increased enormously, making the city one of the world's most popular short-break destinations.

The rest of the country has been less favoured, despite the existence of a number of hot spots such as the medieval jewel of Ceský Krumlov. Yet within its small compass, this little country has so much to offer. Its varied landscape include bare mountains, glorious forested uplands, river gorges, remarkable rock formations and spectacular cave systems, but its greatest assets are man-made; its heritage of historic towns and fine buildings has few equals in Europe, and it is a treasure trove of the work of artists of all kinds. 


Tiệp Khắc (tiếng Séc: Československo, tiếng Slovak: Česko-Slovensko, trước năm 1990: Československo, dịch "Séc-Slovakia"), trong khẩu ngữ còn gọi tắt là Tiệp, là một cựu nhà nước có chủ quyền tại Trung Âu tồn tại từ tháng 10 năm 1918, khi nó tuyên bố độc lập khỏi Đế quốc Áo-Hung, cho tới năm 1992. Từ năm 1939 tới năm 1945 quốc gia này trên thực tế không tồn tại, vì bị bắt buộc giải tán và sáp nhập một phần vào nước Đức Phát xít, nhưng Chính phủ Séc lưu vong quả thực có tồn tại trong giai đoạn này trong khi Slovakia độc lập khỏi Séc. Ngày 1 tháng 1 năm 1993 Tiệp Khắc phân chia trong hòa bình thành Cộng hòa Séc Slovakia. Cộng hòa Séc hiện nay kế thừa Tiệp Khắc về mặt pháp lý.[cần dẫn nguồn]

Tên gọi

Danh xưng "Tiệp Khắc" trong tiếng Việt là giản xưng của Tiệp Khắc Tư Lạc Phạt Khắc (Trung văn: 捷克斯洛伐克, bính âm: Jiékè Sīluòfákè), dùng tiếng Trung Quốc phiên âm từ "Czechoslovakia". Trong đó, "Tiệp Khắc" (Jiékè) là chỉ Séc, "Tư Lạc Phạt Khắc" (Sīluòfákè) là chỉ Slovakia. Hiện nay cũng có một số người Việt Nam gọi Séc là "Tiệp Khắc" hoặc "Tiệp".

Các tính chất căn bản

Hình thức nhà nước:

Nước láng giềng: Đức (1945–1990: Cộng hòa Liên bang ĐứcCộng hòa Dân chủ Đức), Ba Lan, từ 1945 Liên bang Xô viết (1992: Ukraina), România (cho tới năm 1939), Hungary, Áo

Địa hình: Nói chung bằng phẳng. Vùng phía tây là một phần của dải đất cao bắc trung Âu. Vùng phía đông gồm phần phía bắc của lòng chảo Núi CarpathianSông Danube.

Khí hậu: Chủ yếu lục địa nhưng thay đổi từ nhiệt độ ôn hòa của Trung Âu ở phía tây tới các hệ thống thời tiết khắc nghiệt hơn có ảnh hưởng Đông Âu và vùng phía tây Liên Xô tại phía đông.

Tên chính thức

Lịch sử

Thành lập

Tiệp Khắc năm 1928

Tiệp Khắc được thành lập tháng 10 năm 1918 như một trong những quốc gia kế tục của Áo-Hung ở cuối Thế chiến I. Nó gồm các lãnh thổ hiện nay của Cộng hòa Séc, SlovakiaRuthenia Karpat. Lãnh thổ của nó gồm một số vùng rất công nghiệp hoá của Áo-Hung cũ. Đây là một quốc gia đa sắc tộc. Thành phần sắc tộc nguyên thủy của nhà nước mới gồm 51% người Séc, 16% người Slovak, 22% người Đức, 5% người Hung và 4% người Rusyn hay Ruthenia.[3] Nhiều người Đức, Hungary, Ruthenia và người Ba Lan[4] và một số người Slovak, cảm thấy bất lợi tại Tiệp Khắc, bởi giới lãnh đạo chính trị đất nước đưa ra một nhà nước trung ương tập quyền và đa số thời gian không cho phép tự trị chính trị cho các nhóm sắc tộc. Chính sách này, cộng với sự tuyên truyền Phát xít ngày càng tăng đặc biệt ở vùng công nghiệp hoá nói tiếng Đức Sudetenland, đã dẫn tới tình trạng căng thẳng leo thang trong sắc dân không phải Séc.

Tư tưởng chính thống về nhà nước lập hiến của quốc gia mới thời điểm đó là không có người Séc và người Slovak, chỉ một dân tộc: Tiệp Khắc (xem Chủ nghĩa Tiệp Khắc). Nhưng không phải mọi sắc tộc đều đồng ý với tư tưởng này (đặc biệt là người Slovak) và một khi một nhà nước Tiệp Khắc thống nhất được tái lập sau Thế chiến II (sau sự giải tán của quốc gia trong Thế chiến II) ý tưởng này bị bỏ lại và Tiệp Khắc là một đất nước hai dân tộc - người Séc và người Slovak.

Tiệp Khắc năm 1930: ngôn ngữ

Sắc tộc Tiệp Khắc năm 1921[5]


Tổng dân số 13,607.385
Tiệp Khắc 8,759.701 64.37%
Đức 3,123.305 22.95%
Hungary 744.621 5.47%
Ruthenia 461.449 3.39%
Do Thái 180.534 1.33%
Ba Lan 75.852 0.56%
Khác 23.139 0.17%
Người nước ngoài 238.784 1.75%

Thế chiến II

Theo Thoả thuận Munich năm 1938, Anh QuốcPháp buộc Tiệp Khắc nhượng các vùng biên giới nói tiếng Đức cho Phát xít Đức dù đã tồn tại những hiệp ước, trong cái thường được gọi là một phần của Sự phản bội phương Tây. Năm 1939 phần còn lại ("rump") của Tiệp Khắc bị Phát xít Đức xâm lược và phân chia thành vùng Bảo hộ Bohemia và MoraviaCộng Hòa Slovak con rối. Đa phần Slovakia và toàn bộ Ruthenia Hạ Karpat bị Hungary sáp nhập.

Tiệp Khắc thời kỳ xã hội chủ nghĩa

Sau Thế chiến II, nước Tiệp Khắc trước chiến tranh được tái lập, ngoại trừ Ruthenia Hạ Karpat đã sáp nhập vào Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina. Nghị định Beneš được công bố liên quan tới sắc tộc Đức (xem Thoả thuận Potsdam) và sắc tộc Hungary. Theo các nghị định này, quyền công dân bị bãi bỏ với người có nguồn gốc sắc tộc Đức và Hungary, những người từng nhận quyền công dân Đức hoặc Hungary trong thời chiếm đóng. (Năm 1948 điều khoản này bị xoá bỏ cho người Hungary, nhưng chỉ một phần cho người Đức). Sau đó thực hiện trục xuất khoảng 90% dân số sắc tộc Đức tại Tiệp Khắc, hơn 2 triệu người. Những người còn lại bị buộc tội chung là đã ủng hộ Phát xít (sau Thoả thuận Munich, và 97.32% người Đức Sudeten thành niên bỏ phiếu cho NSDAP trong cuộc bầu cử tháng 12 năm 1938). Hầu như mọi nghị định đều nói dứt khoát rằng sự trừng phạt không áp dụng cho những người chống phát xít, dù thuật ngữ chống phát xít không được định nghĩa rõ ràng. Khoảng 250,000 người Đức, nhiều người lấy người Séc, một số người chống phát xít, và cả những người yêu cầu tái lập đất nước thời hậu chiến, vẫn ở lại Tiệp Khắc. Nghị định Beneš vẫn gây ra tranh cãi lớn giữa các nhóm quốc gia tại Cộng hòa Séc, Đức, Áo và Hungary.[6]

Ruthenia Karpat bị chiếm đóng bởi (vào tháng 6 năm 1945 chính thức nhượng lại) Liên Xô. Năm 1946 trong cuộc bầu cử nghị viện Đảng Cộng sản Tiệp Khắc chiến thắng tại vùng đất Séc (Đảng dân chủ chiến thắng tại Slovakia). Tháng 2 năm 1948 những người Cộng sản lên nắm quyền lực. Dù họ tiếp tục duy trì sự đa nguyên chính trị với sự tồn tại của Mặt trận Quốc gia, ngoại trừ một thời gian ngắn cuối thập niên 1960 (Mùa xuân Prague) đất nước này có đặc trưng ở sự thiếu vắng chính trị đa đảng. Nền kinh tế của Tiệp Khắc nhìn chung là tiên tiến hơn nền kinh tế các nước láng giềng ở Đông Âu và được coi là một nước phát triển trên thế giới, dù vẫn thấp hơn nếu so với các nước phát triển cao tại Tây Âu.

Năm 1968, sau một cuộc bạo động, năm nước Khối Đông Âu kéo quân vào Tiệp Khắc. Liên Xô cho xe tăng tiến vào Prague ngày 21 tháng 8 năm 1968.[7] Người đứng đầu chính phủ Xô viết Leonid Brezhnev coi sự can thiệp này là tối cần thiết cho sự tồn tại của Xô viết, hệ thống xã hội chủ nghĩa và cam kết tiến hành can thiệp vào bất kỳ nước nào tìm cách thay thế chủ nghĩa xã hội bằng chủ nghĩa tư bản.[8] Năm 1969, Tiệp Khắc chuyển thành một liên bang gồm Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa SécCộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovak. Theo hình thức liên bang, những sự không công bằng giữa Séc và Slovak gây ảnh hưởng tới nhà nước bị hạn chế. Một số bộ, như bộ giáo dục, chính thức được chuyển cho hai nước cộng hòa. Tuy nhiên, sự quản lý chính trị tập trung bởi Đảng Cộng sản hạn chế khá nhiều hiệu quả của sự liên bang hoá.

Thập niên 1970 chứng kiến sự trỗi dậy của phong trào phản đối tại Tiệp Khắc, đại diện bởi (trong số những người khác) Václav Havel. Phong trào tìm cách tham gia mạnh hơn vào chính trị và thể hiện dưới hình thức phản đối chính thức, diễn ra trong những giới hạn của các hoạt động công việc (đi xa tới mức một lệnh cấm nghiệp đoàn chuyên nghiệp và từ chối giáo dục cao cho con em những nhân vật chống chính phủ được ban ra, cảnh sát thẩm vấn và đôi khi là án tù).

Sau 1989

Năm 1989 đất nước này lại quay trở lại hệ thống đa đảng sau Cách mạng Nhung. Điều này xảy ra cùng khoảng thời gian với sự sụp đổ của khối xã hội chủ nghĩa tại România, Bulgaria, HungaryBa Lan. Trong vòng ba năm những người cộng sản đã bị mất quyền lãnh đạo ở các nước Đông Âu.

Không giống Nam TưLiên bang Xô viết, sự chấm dứt của Chủ nghĩa cộng sản ở nước này không tự động có nghĩa sự chấm dứt của cái tên mang tính cộng sản chủ nghĩa: từ "xã hội chủ nghĩa" bị bỏ đi ngày 29 tháng 3 năm 1990, và được thay bằng "liên bang".

Năm 1992, vì những căng thẳng leo thang của chủ nghĩa quốc gia, Tiệp Khắc giải tán trong hòa bình theo các quá trình trong nghị viện. Lãnh thổ của nó trở thành Cộng hòa SécSlovakia, được chính thức lập ra ngày 1 tháng 1 năm 1993.

Chính sách đối ngoại

Thoả thuận và thành viên tổ chức quốc tế

Sau Thế chiến II, thành viên tích cực trong Hội đồng Tương trợ Kinh tế (Comecon), Khối hiệp ước Warszawa, Liên hiệp quốc và các cơ quan khác của tổ chức này, tham gia ký kết Hội nghị An ninh và Hợp tác châu Âu

Phân chia hành chính

  • 1918–1923: các hệ thống khác nhau trong lãnh thổ Áo cũ (Bohemia, Moravia, một phần nhỏ của Silesia) so với lãnh thổ cũ của Hungary (SlovakiaRuthenia): ba vùng đất (země) (cũng được gọi là các đơn vị quận (obvody)): Bohemia, Moravia, Silesia, cộng thêm 21 hạt (župy) tại Slovakia ngày nay và hai(?) hạt tại Ruthenia hiện nay; cả vùng đất và hạt đều được chia thành các quận (okresy).
  • 1923–1927: như trên, ngoại trừ các hạt của Slovakia và Ruthenia bị thay thế bởi sáu (grand) hạt ((veľ)župy) tại Slovakia và một (grand) hạt tại Ruthenia, và các con số và các biên giới của okresy bị thay đổi trong hai lãnh thổ đó.
  • 1928–1938: bốn vùng đất (Séc: země, Slovak: krajiny): Bohemia, Moravia-Silesia, Slovakia và Ruthenia Hạ Karpat, được chia thành các quận (okresy).
  • Late 1938–tháng 3 năm 1939: như trên, nhưng Slovakia và Ruthenia giành được quy chế "vùng đất tự trị".
  • 1945–1948: như năm 1928–1938, trừ Ruthenia trở thành một phần của Liên bang Xô viết.
  • 1949–1960: 19 vùng (kraje) được chia thành 270 okresy.
  • 1960–1992: 10 kraje, Praha, và (từ 1970) Bratislava (thủ đô Slovakia); chúng được chia thành 109–114 okresy; kraje bị xoá bỏ thạm thời ở Slovakia năm 1969–1970 và cho nhiều mục đích từ năm 1991 tại Tiệp Khắc; ngoài ra, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Séc và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovak được thành lập năm 1969 (không có từ Xã hội chủ nghĩa từ 1990).





Nhóm dân và sắc tộc

Tại thời điểm trước khi phân chia, năm 1991, Tiệp Khắc có 15,6 triệu dân, trong đó người Séc chiếm 62,8%, người Slovakia chiếm 31%, người gốc Hungary chiếm 3,8%, người gốc Romania 0,7%, người gốc Silesi 0,3%. Ngoài ra, tại Tiệp Khắc còn một số ít người gốc Ruthe, Ukraina, Đức, Ba LanDo Thái. Người Séc, Slovakia, Silesi và Ba Lan cùng là các dân tộc Tây Slav. Người Ruthe và Ukraina cùng là các dân tộc Đông Slav.

Chính trị

Sau Thế chiến II, một sự độc quyền chính trị do Đảng Cộng sản Tiệp Khắc (KSC) nắm giữ xuất hiện. Gustáv Husák được bầu làm thư ký thứ nhất của KSC năm 1969 (chuyển thành tổng thư ký năm 1971) và chủ tịch Tiệp Khắc năm 1975. Các đảng và tổ chức khác có tồn tại nhưng chỉ đóng vai trò phụ thuộc cho KSC. Tất cả các đảng chính trị cũng như nhiều tổ chức quần chúng bị gộp lại dưới bóng của Mặt trận Quốc gia. Những nhà hoạt động về quyền con người và tôn giáo bị đàn áp mạnh mẽ.

Phát triển hiến pháp

Tiệp Khắc có các hiến pháp sau trong lịch sử của mình (1918–1992):

Kinh tế

Sau Thế chiến II, kinh tế là tập trung kế hoạch hoá, với các liên kết chỉ huy từ đảng cộng sản, tương tự như Liên bang Xô viết. Ngành công nghiệp luyện kim lớn phụ thuộc vào nhập khẩu quặng sắt và phi sắt.

  • Công nghiệp: Công nghiệp khai khoáng và chế tạo chiếm chủ yếu. Các ngành chính gồm chế tạo máy, hoá chất, chế biến thực phẩm, luyện kim và dệt may. Công nghiệp năng lượng, vật tư và nhân công, kỹ thuật chậm cải tiến, nhưng nước này là nguồn cung cấp máy móc chất lượng cao, máy bay, động cơ hàng không và công cụ, đồ điện tử và vũ khí chính cho các quốc gia cộng sản khác.
  • Nông nghiệp: Lĩnh vực nhỏ nhưng cung cấp phần chủ yếu nhu cầu thực phẩm quốc gia, vì các nông trang đã được tập thể hoá với diện tích lớn và có cách thức hoạt động khá hiệu quả. Phụ thuộc vào nhập khẩu ngũ cốc (chủ yếu làm thức ăn gia súc) trong những năm thời tiết không thuận lợi. Sản xuất thịt bị ảnh hưởng bởi thiếu thức ăn, nhưng lượng thịt tiêu thụ trên đầu người cao.
  • Thương mại nước ngoài: Xuất khẩu ước tính US$17.8 tỷ năm 1985, trong số đó 55% máy móc, 14% nhiên liệu và vật liệu, 16% hàng hoá chế tạo. Nhập khẩu ước tính US$17.9 tỷ năm 1985, trong số đó 41% nhiên liệu và vật liệu, 33% máy móc, 12% sản phẩm nông nghiệp và lâm nghiệp. Năm 1986, khoảng 80% thương mại nước ngoài là với các quốc gia cộng sản.
  • Tỷ giá hối đoái: Chính thức, hay thương mại, tỷ giá Crowns (Kcs) 5.4 trên US$1 năm 1987; du lịch, hay phi thương mại, tỷ giá Kcs 10.5 trên US$1. Không tỷ giá nào phản ánh đúng sức mua. Tỷ giá trên chợ đen khoảng Kcs 30 trên US$1, và tỷ giá này trở thành chính thức khi đồng tiền trở thành chuyển đổi được đầu thập niên 1990.
  • Năm tài chính: Năm dương lịch.
  • Chính sách thuế: Nhà nước sở hữu hầu như toàn bộ phương tiện sản xuất. Nguồn thu từ các doanh nghiệp nhà nước là nguồn thu chủ yếu tiếp theo là thuế doanh thu. Các khoản chi ngân sách lớn cho các chương trình xã hội, trợ cấp, và đầu tư. Ngân sách thường cân bằng hay hơi thặng dư.

Nguồn tài nguyên

Sau Thế chiến II, nước này thiếu năng lượng, phụ thuộc vào nhập khẩu dầu thô và khí tự nhiên từ Liên Xô, than xám trong nước, và năng lượng hạt nhân hay thủy điện. Năng lượng là một vấn đề lớn trong thập niên 1980.

Vận tải và Viễn thông

Xã hội và nhóm Xã hội

Giáo dục

Giáo dục là miễn phí ở mọi cấp độ và phổ cập từ tuổi lên sáu tới mười lăm. Đại đa số người dân biết chữ. Hệ thống dạy nghề phát triển cao và các trường nghề hỗ trợ các trường trung học và các viện giáo dục cao học.

Tôn giáo

Năm 1991: Cơ đốc giáo La Mã 46,4%, Đạo Luther 5,3%, Vô thần 29,5%, không rõ 16,7%, nhưng có những sự khác biệt lớn giữa hai nước cộng hoà lập hiến – xem Cộng hoà SécSlovakia

Sức khỏe, an sinh xã hội và nhà ở

Sau Thế chiến II, chăm sóc sức khoẻ miễn phí được áp dụng cho mọi công dân. Kế hoạch chăm sóc sức khoẻ quốc gia nhấn mạnh tới phòng ngừa; các trung tâm y tế tại các nhà máy và các địa phương hỗ trợ cho các bệnh viện và các cơ sở y tế. Đã có những cải thiện lớn trong chăm sóc sức khoẻ tại nông thôn trong thập niên 1960 và 1970.

Truyền thông

Truyền thông tại Tiệp Khắc bị kiểm soát bởi Đảng Cộng sản Tiệp Khắc (KSČ). Việc sở hữu cá nhân với mọi cơ quan xuất bản hay truyền thông bị cấm, dù các nhà thờ và các tổ chức khác có xuất bản các tạp chí định kỳ và các tờ báo. Thậm chí với sự độc quyền báo chí trong tay các tổ chức dưới sự kiểm soát của KSČ, mọi sách báo xuất bản đều bị Văn phòng Báo chí và Thông tin của chính phủ kiểm duyệt.

Thể thao

Đội tuyển bóng đá quốc gia Tiệp Khắc khá nổi tiếng trên thế giới, với 8 lần góp mặt tại các vòng chung kết FIFA World Cup, đứng hạng 2 tại World Cup 19341962. Đội bóng cũng giành chức vô địch châu Âu năm 1976 và đứng hạng 3 năm 1980.

Đội tuyển hockey trên băng Tiệp Khắc đã giành nhiều huy chương tại các giải đấu thế giới và Olympics.

Emil Zátopek, người giành bốn huy chương vàng điền kinh Olympic được coi là một trong những vận động viên điền kinh hàng đầu trong lịch sử.

Vera Časlavska là vận động viên thể dục đoạt nhiều huy chương, với tám huy chương vàng và bốn huy chương bạc, và đã đại diện cho Tiệp Khắc ở ba kỳ Olympics liên tiếp.

Các tay quần vợt nổi tiếng Ivan Lendl, Miloslav Mečíř, Daniela HantuchováMartina Navrátilová đều sinh ở Tiệp Khắc.

Văn hóa

Xem thêm

Tham khảo

  1. ^ (cs)PRECLÍK, Vratislav. Masaryk a legie (TGM e legioni), váz. kniha, 219 str., vydalo nakladatelství Paris Karviná, Žižkova 2379 (734 01 Karviná, Republica ceca) ve spolupráci s Masarykovým demokratickým hnutím (Masaryk democratic movement, Prague), 2019, ISBN 978-80-87173-47-3
  2. ^ Votruba, Martin. “Czecho-Slovakia or Czechoslovakia”. Slovak Studies Program. University of Pittsburgh. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2009.
  3. ^ "The War of the World", Niall Ferguson Allen Lane 2006.
  4. ^ Playing the blame game, Prague Post, July 6th, 2005
  5. ^ Škorpila F. B.; Zeměpisný atlas pro měšťanské školy; Státní Nakladatelství; second edition; 1930; Czechoslovakia
  6. ^ “East European Constitutional Review”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2009.
  7. ^ “N. Korea Seize U.S. Ship”. UPI. Truy cập 10 tháng 2 năm 2015.
  8. ^ John Lewis Gaddis, The Cold War: A New History (New York: The Penguin Press),150.

Nguồn

Liên kết ngoài


Tiệp Khắc

Tên bản ngữ
1918–1939
1945–1992

Tiêu ngữPravda vítězí (tiếng Séc) (1918–1990)
Veritas Vincit (tiếng Latinh) (1990–1992)
"Chân lý luôn chiến thắng"


Quốc ca
Kde domov můjNad Tatrou sa blýska
"Quê hương tôi nơi đâu?" và "Tia chớp trên đỉnh Tatra"
Duration: 1 minute and 38 seconds.
Location of Tiệp Khắc
Tổng quan
Thủ đô
và thành phố lớn nhất
Praha
50°05′B 14°25′Đ
Ngôn ngữ thông dụngTiếng SécTiếng Slovak
Tên dân cưNgười Tiệp Khắc
Chính trị
Chính phủCộng hòa đại nghị (1918-1939; 1945-1948)
Cộng hoà nhân dân đơn nhất (1948-1960)
Nhà nước Xã hội chủ nghĩa đơn đảng (1960-1969)
Liên bang Xã hội chủ nghĩa (1969-1990)
Tổng thống 

• 1918–1935
Tomáš G. Masaryk (đầu tiên)
• 1989–1992
Václav Havel (cuối cùng)
Thủ tướng 

• 1918–1919
Karel Kramář
• 1992
Jan Stráský
Lịch sử
Lịch sử 

• Độc lập khỏi Áo–Hung
28 tháng 10 1918
• Đức chiếm đóng
1939
1945
• Giải tán Tiệp Khắc
31 tháng 12 1992
Địa lý
Diện tích 
• 1921
140,446 km2
(54 mi2)
• 1993
127.900 km2
(49.382 mi2)
Dân số 

• 1921
13.607.385
• 1993
15.600.000
Kinh tế
Đơn vị tiền tệKoruna Tiệp Khắc
Thông tin khác
Mã điện thoại+42
Tên miền Internet.cs

Tiền thân
Kế tục
Áo–Hung
Cộng hòa Séc
Slovakia
Zakarpattia Oblast
ISO 3166-3: CSHH
Mã điện thoại 42 bị bỏ mùa đông năm 1997. Dải số được chia nhỏ tiếp, và tái phân chia giữa Cộng hòa Séc, SlovakiaLiechtenstein.




Cộng Hòa SÉC

Séc (tiếng Séc: Česko), tên chính thức là Cộng hòa Séc (tiếng Séc: Česká republika phát âm), là quốc gia nội lục thuộc khu vực Trung Âu và giáp Ba Lan, Đức, ÁoSlovakia. Thủ đô và thành phố lớn nhất của quốc gia là Praha với hơn 1,3 triệu dân cư ngụ tại đây. Cộng hòa Séc là quốc gia đa đảng theo chế độ cộng hòa đại nghị. Tổng thống là người đứng đầu nhà nước, còn thủ tướng là người đứng đầu chính phủ. Quốc hội có hai viện gồm thượng việnhạ viện. Cộng hòa Séc gia nhập NATO vào năm 1999 và trở thành thành viên của Liên minh châu Âu từ năm 2004. Ngày 21 tháng 12 năm 2007, Cộng hòa Séc đã thông qua Hiệp ước Schengen, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc đi lại và du lịch vào nước này. Ngoài ra, Cộng hòa Séc là thành viên của các tổ chức OECD, OSCE, Ủy hội châu ÂuNhóm Visegrád.

Lãnh thổ Cộng hòa Séc bao gồm các vùng đất đã từng tồn tại trong lịch sử là Bohemia, Morava và 1 phần Silesia. Séc trở thành bộ phận của Đế quốc ÁoĐế quốc Áo-Hung trong hàng thế kỉ cho đến năm 1918 khi Séc cùng với Slovakia tuyên bố thành lập nước Tiệp Khắc. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Tiệp Khắc bị phát xít Đức chiếm đóng. Sau đó, nước này trở thành quốc gia xã hội chủ nghĩa cho đến năm 1989 khi cuộc Cách mạng Nhung diễn ra đưa đất nước trở về tiến trình dân chủ. Ngày 1 tháng 1 năm 1993, một cuộc ly khai đã diễn ra, Tiệp Khắc lại tách thành 2 quốc gia độc lập là Séc và Slovakia.

Tên gọi

Tên gọi cũ trong tiếng Anh của Cộng hòa Séc là "Bohemia" biến đổi từ tiếng Latinh "Boiohaemum" có nghĩa là "quê hương của người Boii". Tên gọi Séc hiện tại lấy từ tên Čechy chuyển hóa từ cách phát âm Cžechy của Ba Lan.[10]

Sau khi Tiệp Khắc (Československo trong tiếng Séc hay Czechoslovakia trong tiếng Anh), 1 liên bang bao gồm Séc và Slovakia giải thể thành 2 quốc gia riêng biệt, Séc không có tên gọi chính thức trong tiếng Anh. Năm 1993, Bộ Ngoại giao Cộng hòa Séc đề nghị tên Czechia như là tên thay thế chính thức cho tất cả trường hợp không phải là các văn bản chính thức và tên gọi của cơ quan chính quyền nhưng tên gọi này không sử dụng rộng rãi trong các văn bản tiếng Anh như là Czech Republic.

Tháng 4 năm 2016 chính phủ Séc dự định sẽ đề nghị lên Liên Hợp Quốc về việc coi Czechia là 1 trong những tên gọi chính trong cơ sở dữ liệu địa lý.[11][12]

Tên "Séc" trong tiếng Việt là phiên âm của từ "tchèque" trong République tchèque ("Cộng hòa Séc") từ tiếng Pháp (nếu không dùng kèm từ République - "Cộng hòa" thì nước này trong tiếng Pháp gọi là Tchéquie, đọc phiên âm như là "Séc-ki"). Hiện tại trong tiếng Trung, Séc vẫn được gọi là Tiệp Khắc (捷克) lấy chữ Hán có âm Quan thoại gần giống (Jiékè) để phiên âm từ quốc hiệu "Česko". Tuy nhiên "Tiệp Khắc" hay "Tiệp" trong tiếng Việt hiện dùng để chỉ nhà nước liên bang cũ của Séc và Slovakia hoặc các chính thể tương tự.

Lịch sử

Tiền sử

Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy bằng chứng của người tiền sử sinh sống tại vùng đất ngày nay là Cộng hòa Séc. Từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên, các bộ tộc Celt, Boii đã đến Séc định cư. Đến thế kỷ I, các bộ tộc MarcomanniQuani tại vùng đất thuộc Đức ngày nay cũng đến sinh sống tại vùng đất này. Trong suốt Giai đoạn Di cư tại châu Âu vào thế kỷ 5, các bộ lạc thuộc Đức đã rời khỏi vùng đất Séc và di tản ra các vùng đất ở phía Đông và phía Tây.

Người Slav từ vùng Biển Đen-Karpat định cư tại đây (do các cuộc tấn công từ vùng Siberia và các bộ lạc Đông Âu: Hung, Avar, Bulgar và Magyar). Vào thế kỷ 6 họ di cư tới các vùng đất tại phía Nam như Bohemia, Moravia và 1 số vùng đất mà ngày nay thuộc về lãnh thổ Áo. Trong suốt thế kỷ VII, thương gia Samo đến từ vùng Francia đã lãnh đạo và ủng hộ cuộc khởi nghĩa của người Slav để chống lại tộc người Avar năm 623, trở thành người thống trị của Vương quốc Slav đầu tiên. Đây là tổ chức chính quyền đầu tiên của người Slav nhưng thực tế đây là 1 liên minh của 1 số bộ lạc chứ không thực sự là 1 quốc gia quân chủ chuyên chế.

Đại Moravia

Moravia mở rộng nhất dưới thời vua Svatopluk I

Sau khi Đế chế của vua Samo tan rã, người Moravia và Nitra đã thành lập các công quốc mới. Năm 833, Mojmir I của Moravia đã tấn công và sáp nhập công quốc Nitra, lập ra 1 công quốc duy nhất là Đại Moravia (Velká Morava).

Năm 846, Mojmir I nhường ngôi cho người cháu của mình là Rastislav (846-870). Dưới thời Rastislav, 1 cuộc cải cách văn hóa đã diễn ra khi 2 nhà truyền giáo Kyrillô và Mêthôđiô bị người này mời đến Đại Moravia để truyền bá đạo Thiên chúa vào đất nước này. Họ cũng góp công trong việc xây dựng bảng chữ cái của người Slav tức bảng ký tự Cyril.

Dưới thời vua Svatopluk I, Đại Moravia đạt tới sự mở rộng lớn nhất về diện tích. Lãnh thổ của nó trải dài trên các vùng đất ngày nay là Hungary, Ba Lan, Áo, Đức, Serbia, Slovenia, CroatiaUkraina. Về sau, những cuộc chiến tranh với Đế chế Frank đã làm cho Đại Moravia suy yếu và những người Hungary xâm lược đã khiến đất nước tan rã vào đầu thế kỷ 10.

Thời kỳ Trung cổ

Quanh cảnh cầu Karl ở thủ đô Praha

Năm 995, công quốc Bohemia thành lập dưới sự lãnh đạo của vương triều Premyslid, thành viên của 1 bộ tộc tên là Séc. Vương triều Premyslid đã thống nhất các vương triều Séc khác và thành lập 1 chính quyền trung ương.

Đầu thế kỷ XI, công quốc Bohemia đã chinh phục nước Đại Moravia. Tuy Moravia vẫn là 1 lãnh địa tách biệt của Bohemia song nước này lại bị cai trị bởi 1 trong những người con trai của vua Bohemia.

Vào năm 1306, dòng họ Premyslid không có người kế vị. Sau những cuộc chiến giành quyền lực, dòng họ Luxemburg đã đoạt được ngôi vua Bohemia. Vị vua thứ 2 của triều đại Luxemburg là Karel IV (1342-1378, Charles trong tiếng Anhtiếng Pháp, Karl trong tiếng Đức) đã thay đổi đất nước Bohemia. Năm 1344, người này nâng chức Giám mục của thành phố Praha lên thành tổng Giám mục đồng thời kiềm chế quyền lực của các quý tộc Séc và đưa Bohemia, Moravia trở thành các quận hành chính và đưa Brandenburg (tới năm 1415), Lusatia (tới năm 1635), Silesia (tới năm 1742) vào quyền kiểm soát của Séc. Karel IV cũng tạo ra các công trình xây dựng như lâu đài Prahacầu Karl. Karel IV cũng thành lập Đại học Karl ở Praha (Univerzita Karlova) năm 1348 với mong muốn biến Praha thành 1 trung tâm học vấn của châu Âu.

Vào thế kỷ XV, 1 cuộc chiến tranh tôn giáo đã diễn ra tại Séc, lịch sử gọi là cuộc Chiến tranh Hussite. Séc suy yếu và đến năm 1526 đã bị sáp nhập vào đế chế Habsburg.

Thời kỳ thuộc triều đại Habsburg

Sau khi bị sáp nhập vào Đế chế Habsburg, người Séc bắt đầu bị đồng hóa. Tiếng Séc bị cấm sử dụng và tiếng Đức trở thành ngôn ngữ chính thức ở Séc.

Năm 1618, người Bohemia đã nổi dậy chống lại triều đình Habsburg. Họ đã chọn 1 người theo đường lối của Jean Calvin là Frederick của Palatinate (Fridrich Falcký) lên ngôi. Nhưng đến ngày 6 tháng 11 năm 1620, quân đội Séc bị đánh bại tại Trận Núi Trắng (Bitva na Bílé hoře). Chiến tranh Ba mươi năm (1618-1648) đã phá hủy phần lớn những làng mạc, thành phố của Bohemia.

Đến thời nữ hoàng Maria Theresa và con trai, vua Joseph II, những người chịu ảnh hưởng của Thời đại Khai sáng, tình hình Bohemia bắt đầu có những chuyển biến. Tuy chính sách đồng hóa vẫn không thay đổi nhưng tình hình xã hội, giáo dục đã cải thiện cho người Séc. Vào thế kỷ XIX, chủ nghĩa bành trướng của Pháp dưới thời vua Napoleon I đã kích thích tinh thần phục hưng dân tộc của người Séc. Tầng lớp trí thức mới hơn đã đóng vai trò nhất định trong việc phục hưng và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Tháng 2 năm 1848, cuộc Cách mạng tháng 2 ở Pháp đã làm bùng nổ cao trào cách mạng tư sản lan khắp châu Âu. Vào ngày 12 tháng 6 năm 1848, khởi nghĩa của những người dân chủ cấp tiến và sự hưởng ứng của nhân dân đã bùng nổ tại Praha và đến ngày 17 tháng 6, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt.

Năm 1867, nhà nước quân chủ lưỡng hợp Áo-Hung ra đời trong đó Séc nằm trong tầm ảnh hưởng của Áo. Vào những năm ở nửa sau của đế chế Áo-Hung, tình hình giữa người Séc và người Đức ở Bohemia trở nên căng thẳng hơn. Mối quan hệ xấu đi giữa các dân tộc trong đế chế đã đẩy nhanh hơn sự sụp đổ của quốc gia này. Năm 1900, Tomáš Garrigue Masaryk người sau này trở thành tổng thống Tiệp Khắc đã thành lập Đảng Tiến bộ Séc. Ý tưởng về quốc gia kết hợp giữa hai dân tộc Séc và Slovakia bắt đầu hình thành.[13]

Tiệp Khắc (1918-1993)

Bản đồ Tiệp Khắc năm 1928

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc cùng với sự sụp đổ của Đế chế Áo-Hung, ngày 28 tháng 10 năm 1918, Cộng hòa Tiệp Khắc (bao gồm Séc và Slovakia ngày nay) tuyên bố độc lập. Hiệp ước St. Germain bị ký kết vào tháng 9 năm 1919 đã chính thức công nhận nền cộng hòa mới của Tiệp Khắc. Sau đó, Ruthenia cũng sáp nhập vào Tiệp Khắc vào tháng 6 năm 1920. Quốc gia Tiệp Khắc mới thành lập có dân số khoảng 13,5 triệu người, thừa hưởng 70-80% các cơ sở công nghiệp của Áo-Hung. Lúc đó Tiệp Khắc nằm trong 10 nước công nghiệp hóa nhất thế giới.

Trước chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền phát xítĐức bắt đầu đe dọa tiến hành xâm lược Trung Âu. Sau khi sáp nhập nước Áo vào lãnh thổ Đức, Tiệp Khắc trở thành mục tiêu tiếp theo của phát xít Đức. Tháng 4 năm 1938, Đức nêu yêu sách đòi vùng đất Sudetenland của Tiệp Khắc. Ngày 29 tháng 9 năm 1938, Hiệp ước München bị ký kết. Anh, Pháp vì không muốn chiến tranh với Đức đã quyết định vứt bỏ liên minh quân sự với Tiệp Khắc. Và hậu quả là đến ngày 16 tháng 3 năm 1939, toàn bộ lãnh thổ Tiệp Khắc đã bị Đức chiếm đóng. Trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai, khoảng 390.000 người dân thành thị trong đó có 83.000 người Do Thái đã bị giết hại hoặc bị hành quyết. Hàng trăm ngàn người đã bị đưa vào các nhà tù và các trại tập trung để làm việc. Chiến tranh kết thúc vào ngày 9 tháng 5 năm 1945 với việc cuộc khởi nghĩa Praha lật đổ ách thống trị của phát xít Đức thành công và quân đội Liên XôHoa Kỳ tiến vào Tiệp Khắc.

Từ năm 1945-1946, đa phần người Đức thiểu số (khoảng 2,7 triệu người) đã bị trục xuất khỏi Tiệp Khắc sang Đức và Áo. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc phát triển nhanh hơn do sự thất vọng của người Tiệp Khắc đối với phương Tây vì đã vứt bỏ họ trong Hiệp ước München và do ảnh hưởng ngày càng mạnh của Liên Xô. Trong cuộc bầu cử năm 1946, Đảng Cộng sản đã giành tỉ lệ phiếu 38%, trở thành chính đảng lớn nhất và chính thức cầm quyền từ tháng 2 năm 1948. Sau đó, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã xây dựng 1 chính quyền toàn cộng sản.

Biểu tình trong cuộc Cách mạng Nhung lụa 1989

Sau khi nắm quyền, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã quốc hữu hóa các ngành kinh tế, xây dựng nền kinh tế kế hoạch. Kinh tế tăng trưởng nhanh hơn trong thập niên 1950thập niên 1960 sau đó bắt đầu giảm sút từ thập niên 1970 và rơi vào trì trệ hơn trong thập niên 1989. Chính quyền trở nên thiếu dân chủ hơn. Năm 1968, phong trào Mùa Xuân Praha bùng nổ đòi mở rộng tự do dân chủ và thực hiện đa nguyên chính trị song sau đó bị quân đội Liên Xô dập tắt.

Tháng 11 năm 1989, cuộc Cách mạng Nhung lụa khiến Đảng cộng sản Tiệp Khắc mất quyền lãnh đạo. Ngày 1 tháng 1 năm 1993, Tiệp Khắc diễn ra cuộc "chia li trong hòa bình". 2 dân tộc Séc và Slovakia tách ra thành lập 2 quốc gia mới là Cộng hòa Séc và Cộng hòa Slovakia.

Cộng hòa Séc (từ 1993)

Sau khi lại trở thành 1 quốc gia độc lập vào năm 1993, quốc hội Cộng hòa Séc đã quyết định giữ nguyên lá cờ của Liên bang Tiệp Khắc cũ làm lá cờ của Cộng hòa Séc. Cùng năm đó, nước này gia nhập Liên Hợp Quốc. Đến năm 1995, Cộng hòa Séc trở thành thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ngày 12 tháng 3 năm 1999, Cộng hòa Séc gia nhập NATO. Vào năm 2004, cùng với 9 quốc gia Đông Âu và Nam Âu khác, Cộng hòa Séc đã trở thành thành viên của Liên minh châu Âu[14].

Kinh tế Cộng hòa Séc đi theo nền kinh tế thị trường và đã trên đà phát triển, song vẫn đối mặt với những mạo hiểm và thách thức.

Chính trị

Hệ thống chính trị

Cộng hòa Séc là quốc gia đa đảng theo chế độ dân chủ nghị viện. Theo hiến pháp, tổng thống là người đứng đầu nhà nước còn thủ tướng là người điều hành chính phủ.

Tổng thống Cộng hòa Séc do Quốc hội bầu với nhiệm kỳ 5 năm. Theo Hiến pháp, tổng thống không được phép nắm quá 2 nhiệm kỳ liên tiếp. Tổng thống có vai trò chủ yếu về mặt nghi thức song cũng có thể dừng thông qua 1 đạo luật hoặc giải tán quốc hội trong những trường hợp đặc biệt. Cộng hòa Séc đã thông qua bộ luật về việc bầu cử tổng thống trực tiếp tức là tổng thống sẽ do dân bầu ra chứ không do Quốc hội.

Thủ tướng Cộng hòa Séc là người đứng đầu chính phủ. Thủ tướng nắm trong tay 1 số quyền lực như quyết định các vấn đề đối nội và đối ngoại, triệu tập quốc hội và chọn ra các bộ trưởng của chính phủ.

Quốc hội của Cộng hòa Séc tổ chức theo mô hình lưỡng viện bao gồm hạ việnthượng viện. Hạ viện (Poslanecká sněmovna) gồm 200 ghế còn thượng viện (Senát) bao gồm 81 ghế. Tại Cộng hòa Séc có 14 khu vực bầu cử tương ứng với 14 khu vực hành chính của cả nước.

Tòa án Hiến pháp (hay Tòa án Lập pháp) của Cộng hòa Séc gồm có 15 thành viên và có nhiệm kỳ 10 năm. Các thành viên của Tòa án Hiến pháp do tổng thống chỉ định và thông qua bởi thượng viện.

Là quốc gia đa đảng, chính trường Cộng hòa Séc có sự tham gia của các đảng phái. Chẳng hạn trong kỳ bầu cử vào Hạ viện Quốc hội Séc tiến hành ngày 28 và 29 tháng 5 năm 2010 đã có 27 đảng phái và tổ chức chính trị đăng ký tham gia. 2 đảng có ảnh hưởng lớn nhất ở Cộng hòa Séc là Đảng Dân chủ Công dân (Občanská demokratická strana) và Đảng Xã hội Dân chủ Séc (Česká strana sociálně demokratická).

Quân đội

Quân đội Séc gồm có lục quân, không quân và lực lượng hậu cần đặc biệt. Quân đội Séc là 1 phần của Quân đội Tiệp Khắc trước kia vốn là 1 trụ cột của Hiệp ước Warsaw cho đến năm 1989. Từ khi gia nhập NATO vào ngày 12 tháng 3 năm 1999, lực lượng quân đội Séc đã có những sự thay đổi đa phương diện. Tuy số lượng binh lính giảm xuống còn khoảng 67.000 nhưng về mặt chất lượng lại nâng cao và trình độ tổ chức chuyên nghiệp hơn. Năm 2004, chế độ nghĩa vụ quân sự bắt buộc bị giải thể.[15]

Lực lượng quân đội Séc ngoài nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ đất nước còn tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc tại Iraq, Afghanistan, Bosna và Hercegovina, Kosovo. Năm 2005, ngân sách quốc phòng của Cộng hòa Séc đạt khoảng hơn 2 tỉ USD chiếm 1,81% GDP.[16]

Hành chính

Bản đồ các khu vực của Cộng hòa Séc

Địa hình

1 vùng thôn quê

Về mặt địa lý, Cộng hòa Séc nằm ở khu vực Trung Âu còn theo phân loại của Liên Hợp Quốc thì nước này thuộc khu vực Đông Âu. Về mặt lịch sử và văn hóa, Cộng hòa Séc bị xem là có liên hệ gần gũi hơn với các nước Đông Âu đặc biệt là trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.

Diện tích Cộng hòa Séc xếp hàng thứ 115 thế giới (xem Danh sách quốc gia theo diện tích). Tổng diện tích của nước này là 78.886 km², trong đó phần đất chiếm 77.276 km² và phần nước chiếm 1.590 km². Do bị bao quanh bởi các quốc gia khác nên Cộng hòa Séc không giáp biển. Nước này có chung đường biên giới 1.881 km với các nước Đức về phía tây, Ba Lan về phía đông bắc, Slovakia về phía đông nam và Áo về phía nam.

Về mặt lịch sử, lãnh thổ Cộng hòa Séc có thể chia làm 3 vùng lịch sử: Bohemia, MoraviaSilesia. Silesia chỉ có 1 phần lãnh thổ ở Cộng hòa Séc.

Địa hình nước này có thể chia thành 2 miền chính: Bohemia ở phía tây và Moravia ở phía đông. Địa hình Bohemia có cấu trúc như 1 bồn địa gồm những đồng bằng và cao nguyên bao bọc xung quanh bởi những dãy núi như dãy Karkonosze và dãy Sudeten. Đỉnh núi Snezka tại Bohemia và ngọn núi cao nhất Cộng hòa Séc (1602 m). Trong khi địa hình Bohemia bằng phẳng hơn thì ngược lại, địa hình Moravia chủ yếu là đồi núi. Cộng hòa Séc là nơi bắt nguồn của sông Elbe, sông Vltava ở xứ Bohemia và sông Morava ở xứ Moravia. Các con sông của nước này chảy vào các biển khác nhau như: biển Bắc, biển Balticbiển Đen.

Về khoáng sản, Cộng hòa Séc có 1 số tài nguyên như than đá, than chì, cao lanh, đất sét, gỗ xây dựng...

Khí hậu

Cộng hòa Séc nằm trong khu vực khí hậu ôn hòa. Do nằm sâu trong lục địa và không còn chịu các tác động của biển nên Cộng hòa Séc có khí hậu ôn đới lục địa, 1 nguyên nhân gây ra sự chênh lệch giữa thời tiết mùa hạ và mùa đông tại nước này. Sự đa dạng của địa hình cũng góp phần làm nên sự đa dạng của các kiểu khí hậu khác nhau tại Cộng hòa Séc.

Nhìn chung trên toàn lãnh thổ Cộng hòa Séc, khí hậu về mùa đông không khắc nghiệt như 1 số nước. Nhiệt độ trung bình thấp nhất tại nước này vào tháng 1, tháng lạnh nhất trong năm là -5,4 °C. Tuyết thường rơi nhiều hơn tại 1 số vùng núi nhưng tan nhanh hơn tại các vùng thấp hơn của Cộng hòa Séc khiến cho mùa đông ở nước này ẩm hơn. Khi mùa đông kết thúc, băng tuyết tan chảy làm mực nước các con sông dâng lên và thỉnh thoảng có thể gây lũ. Mùa hè tại Cộng hòa Séc có nhiệt độ trung bình cao nhất vào tháng 7, tháng nóng nhất tại Cộng hòa Séc là 23,3 °C[17]. Mùa hè tại nước này có nhiều mưa hơn 1 số nước. Những trận bão từ Đại Tây Dương có thể tràn vào nước này cũng mang theo 1 lượng mưa bổ sung. Nhiệt độlượng mưa giảm dần về mùa thu và các rừng cây bắt đầu rụng lá.

Dân số

Dân số các vùng của người Séc
Năm Tổng cộng Thay đổi Năm Tổng cộng Thay đổi
1857 7.016.531 1930 10.674.386 6.6% 2013 10.513.300
1869 7.617.230 8.6% 1950 8.896.133 -16.7%
1880 8.222.013 7.9% 1961 9.571.531 7.6%
1890 8.665.421 5.4% 1970 9.807.697 2.5%
1900 9.372.214 8.2% 1980 10.291.927 4.9%
1910 10.078.637 7.5% 1991 10.302.215 0.1%
1921 10.009.587 -0.7% 2001 10.230.060 -0.7%

Dân số Cộng hòa Séc từng rơi vào khoảng 10,3 triệu người. Dân số tại đây đã có những biến động. Số liệu thống kê năm 1857 cho thấy dân số của vùng đất Séc lúc đó là khoảng 7 triệu người. Sau đó con số này tăng dần qua các năm và đến đầu thế kỷ 20 thì đạt xấp xỉ 9,4 triệu dân. Sang năm 1910, dân số của Séc vượt qua ngưỡng 10 triệu. Các cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhấtChiến tranh thế giới thứ hai đã khiến cho dân số của nước này giảm sút. Sau chiến tranh, số lượng nhân khẩu của nước này tiếp tục phục hồi. Hiện nay dân số Cộng hòa Séc lại có chiều hướng giảm xuống tuy phần nào đỡ hơn 1 số nước Đông Âu khác. Theo báo cáo dân số năm 2006 của Liên Hợp Quốc, tốc độ tăng dân số của Cộng hòa Séc là -0,03%[18]. Nguyên nhân là do tỉ lệ sinh của nước này giảm cùng với việc Cộng hòa Séc gia nhập EU năm 2004 làm xuất hiện dòng người nhập cư sang các nước phát triển hơn ở Tây Âu kiếm sống.

Đa phần dân cư của Cộng hòa Séc là người Séc chiếm tỉ lệ 95%. Bên cạnh đó, tại Séc còn có các cộng đồng dân tộc thiểu số khác như người Slovakia, người Đức, người Ba Lan, người Hungary, người Việt Nam. Sau khi Liên bang Tiệp Khắc tan rã, 1 bộ phận người Slovakia vẫn tiếp tục ở lại Cộng hòa Séc và trở thành nhóm sắc tộc thiểu số lớn nhất nước này, chiếm 3% dân số. Xếp tiếp sau đó là người Ba Lan. Ở Cộng hòa Séc có 1 số trường tiểu học và trung học cơ sở dạy tiếng Ba Lan. Trước kia, người Đức chiếm 1 tỉ lệ lớn hơn trong dân số Séc nhưng sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, chính quyền Tiệp Khắc đã ra lệnh trục xuất khoảng 3 triệu người Đức ra khỏi lãnh thổ nước này. Ngày nay cộng đồng người Đức tại Séc có nguy cơ bị đồng hóa do tiếng Đức không phổ biến bằng 1 số ngôn ngữ khác tại đây.

Bên cạnh các dân tộc có nguồn gốc từ các quốc gia láng giềng trong khu vực còn có 1 số dân tộc khác mới nhập cư vào Séc trong thế kỷ XX. Khi cuộc nội chiến Hy Lạp xảy ra, 1 số người Hy Lạp đã chạy sang Tiệp Khắc đầu tiên là những trẻ em tị nạn vào năm 1948-1949 rồi tiếp đó là thân nhân và cả những người cánh tả tại Hy Lạp. Cộng đồng người gốc Á lớn nhất tại Cộng hòa Séc là người Việt Nam. Người Việt Nam đến Tiệp Khắc lần đầu vào năm 1956 để du học theo thỏa thuận về giáo dục giữa hai chính phủ cộng sản lúc bấy giờ. Số người Việt Nam nhập cư vào Cộng hòa Séc tăng nhanh hơn cho đến khi chế độ xã hội chủ nghĩa tại nước này sụp đổ vào năm 1989. Thế hệ đầu tiên của người Việt Nam tại đây chủ yếu kinh doanh trong những cửa hàng còn thế hệ người Việt tiếp theo sinh ra tại Séc có những thành tích học tập nhất định.[19] Trong năm 2009, có khoảng 70.000 người Việt tại Cộng hòa Séc.[20] Ngày 3 tháng 7 năm 2013, chính phủ Cộng hòa Séc công nhận cộng đồng người Việt tại Séc trở thành dân tộc thứ 14 của quốc gia này.[21]

Người Do Thái từng có 1 cộng đồng lớn hơn tại Cộng hòa Séc nhưng đa phần họ trong Thế chiến Thứ 2 đã bị Đức Quốc Xã tàn sát. Tại Séc những nét văn hóa của người Do Thái đã được gìn giữ đặc biệt là tại thủ đô Praha.

Kinh tế

Khái quát lịch sử

Quảng trường Wenceslas, Praha

Vào thế kỷ XIX, hai vùng đất BohemiaMoravia của Cộng hòa Séc ngày nay là trung tâm công nghiệp chính của Đế chế Áo-Hung. Vì vậy sau khi Đế chế Áo-Hung sụp đổ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nước này đã thừa kế một phần lớn những cơ sở công nghiệp. Vào thời điểm đó, Tiệp Khắc được đánh giá là một nước có cơ sở hạ tầng tốt với trình độ dân trí cao song nhiều nhà máy và thiết bị của nước này có phần lạc hậu hơn so với các nước tư bản Tây Âu. Trong thời kỳ xã hội chủ nghĩa, kinh tế Tiệp Khắc tương đối phát triển và gắn bó chặt chẽ với Liên Xô. Nhưng đến năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa tại Liên Xô và Đông Âu sụp đổ đã khiến cho nền kinh tế Séc mất đi nhiều thị trường lớn ở phía đông và rơi vào khủng hoảng.

Cuộc Cách mạng Nhung lụa diễn ra vào năm 1989 đã tạo điều kiện cho sự thay đổi căn bản toàn bộ nền kinh tế Séc. Tháng 1 năm 1991, "liệu pháp sốc" đã mang đến những thay đổi rất lớn: 95% các mặt hàng không còn chịu kiểm soát giá cả của nhà nước, lạm phát hạ xuống dưới 10%, tỉ lệ thất nghiệp thấp, thâm hụt ngân sách và nợ nước ngoài giảm đáng kể và đáng chú ý nhất là sự chuyển đổi trọng tâm hợp tác kinh tế từ Đông sang Tây. Cộng hòa Liên bang Đức, Hà LanMỹ trở thành những nhà đầu tư lớn nhất tại Cộng hòa Séc. Sự chuyển đổi đó cũng yêu cầu những cải cách mạnh mẽ về luật pháp và hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho đầu tư và phát triển. Ngân hàngbưu chính viễn thông được quan tâm đẩy mạnh. Về tài chính, từ năm 1995, tỷ giá hối đoái giữa đồng koruna của Cộng hòa Séc và đôla Mỹ đã được thiết lập một cách ổn định. Sự tư nhân hóa ồ ạt nền kinh tế cũng diễn ra với tốc độ chóng mặt: năm 1998, đã có đến hơn 80% xí nghiệp thuộc sở hữu tư nhân.

Cuộc khủng hoảng chính trị và tài chính 1997 đã tác động mạnh đến nền kinh tế Séc. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1997 hạ xuống còn 0,3%, năm 1998 là -2,3% và năm 1999 là -0,5%. Nguyên nhân là do sự thực hiện "liệu pháp sốc" một cách vội vã và không vững chắc. Chính phủ Cộng hòa Séc đã phải xem xét lại các chính sách kinh tế của mình và điều chỉnh lại sao cho thích hợp hơn như tăng tốc việc hội nhập với các tiêu chuẩn kinh tế của EU, tái cơ cấu các doanh nghiệp, tiến hành tư nhân hóa với các ngân hàng và các ngành dịch vụ công cộng. Bắt đầu từ năm 2000, tốc độ tăng trưởng của nước này dần dần hồi phục. Xuất khẩu vào thị trường EU, đặc biệt là Đức tăng mạnh đã làm giảm thâm hụt thương mại của nước này xuống còn 5% GDP. Năm 2004, Cộng hòa Séc chính thức trở thành một thành viên của Liên minh châu Âu, đòi hỏi nước này phải thúc đẩy quá trình cải cách kinh tế hơn nữa.

Những năm gần đây, Cộng hòa Séc đang trở thành một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển mạnh tại khu vực Đông Âu. Theo số liệu của Quỹ tiền tệ Quốc tế, năm 2016, GDP danh nghĩa của Cộng hòa Séc là 193.535 tỷ USD (GDP theo sức mua tương đương: 34,768 tỷ USD), thu nhập bình quân đầu người đạt 17,570 USD[22], cao hơn so với nhiều nước Đông Âu khác như Ba Lan, Hungary, Slovakia tuy nhiên vẫn còn thấp hơn mức trung bình của Liên minh châu Âu. Nền kinh tế nước này được đánh giá là tăng trưởng nhanh và ổn định. Năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước này đạt 5,7%[23]. Cộng hòa Séc là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế lớn như Liên minh châu Âu, WTOOECD.

Các ngành kinh tế

Quang cảnh Pháo đài Praha, Cộng hòa Séc

Nông nghiệp của Cộng hòa Séc không có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Các loại cây trồng chủ yếu của nước này là lúa mì, khoai tây, củ cải đường, cây hublông... Trong cơ cấu kinh tế, nông nghiệp chiếm 3,4% GDP của Cộng hòa Séc.

Vốn là một nước có sẵn những cơ sở công nghiệp từ thế kỷ XIX, nền công nghiệp của Cộng hòa Séc có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển. Các ngành công nghiệp chính của nước này là luyện kim, sản xuất máy móc, thiết bị điện tử, phương tiện giao thông, dệt may, chất hóa học, dược phẩm, chế biến lương thực thực phẩm... Bên cạnh đó, Cộng hòa Séc rất với ngành công nghiệp sản xuất đồ gốm sứ và pha lê. Công nghiệp chiếm tỉ trọng 39,3% trong nền kinh tế. Về phương tiện giao thông, cộng hòa Séc nổi tiếng với ngành chế tạo ô tô cùng thương hiệu ô tô Skoda - được sáng lập năm 1895 bởi Václav Klement và Václav Laurin.

Dịch vụ là lĩnh vực đóng góp nhiều nhất trong nền kinh tế, chiếm 57,3% GDP. Các ngành ngân hàng, công nghệ thông tin, viễn thông là những động lực năng động của nền kinh tế Séc và thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Thương mại là một hoạt động kinh tế quan trọng với các đối tác thương mại chủ yếu là Cộng hòa Liên bang Đức, Slovakia, Áo, Ba Lan... Du lịch cũng là một thế mạnh của Cộng hòa Séc. Năm 2001, doanh thu từ du lịch mang về cho nước này khoảng 118 tỉ koruna, đóng góp tới 5,5% GNP của nước này. Thủ đô Praha thường là lựa chọn hàng đầu của du khách với rất nhiều các công trình văn hóa, lịch sử nổi tiếng. Những khu du lịch spa như Karlovy Vary thường là điểm đến được yêu thích vào các kỳ nghỉ. Những lễ hội âm nhạc hay bia của Cộng hòa Séc cũng góp phần làm đất nước này trở thành một địa điểm du lịch hấp dẫn.

Tiền tệ

Đồng tiền chính thức hiện nay của Cộng hòa Séc là đồng koruna. Trong tiếng Séc, từ koruna có nghĩa là "vương miện". Đồng tiền này chính thức được sử dụng từ ngày 18 tháng 2 năm 1993 sau khi Cộng hòa Séc và Slovakia tách khỏi Tiệp Khắc. Ký hiệu trong giao dịch quốc tế của đồng koruna Séc theo ISO 4217CZK.

Đồng tiền koruna của Cộng hòa Séc bắt đầu tham gia các tỷ giá hối đoái từ năm 1995 và được thả nổi kể từ năm 1999. Trong năm 2007, chỉ số lạm phát của đồng tiền này là 2,4% và đã được duy trì ổn định trong suốt nhiều năm qua. Cộng hòa Séc có kế hoạch gia nhập khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (euro) vào năm 2012 nhưng sau đó đã tuyên bố hoãn lại. Đầu năm 2008, Ngân hàng Quốc gia Séc tuyên bố sẽ lùi thời hạn gia nhập khu vực đồng tiền chung đến năm 2019[24].

Cơ sơ hạ tầng

  • Năng lượng: Cộng hòa Séc nhìn chung nghèo tài nguyên về năng lượng, ngoại trừ một ít dầu mỏkhí gas ở miền nam Moravia. Hiện nay nước này đang hạn chế dần việc sử dụng than làm chất đốt vì vì sản sinh ra nhiều khí nhà kính gây ô nhiễm môi trường. Năng lượng nguyên tử chiếm 30% tổng nhu cầu năng lượng hiện nay ở Cộng hòa Séc, và dự kiến có thể tăng lên 40% trong những năm tới. Khí gas tự nhiên được nhập khẩu từ nước ngoài và là một khoản chi tiêu lớn của Cộng hòa Séc. Gas được nhập từ tập đoàn Gazprom của Nga qua các đường ống trung chuyển ở Ukraina và nhập từ các công ty của Na Uy, được vận chuyển qua Đức. Sản lượng điện năm 2005 đạt 77,38 tỷ Kwh và ngoài đáp ứng tiêu thụ trong nước, Cộng hòa Séc xuất khẩu gần 25 tỷ KWh điện năng.
  • Giao thông: là trái tim của châu Âu nên Cộng hòa Séc có mạng lưới giao thông dày đặc và khá phát triển. Đường sắt có tổng chiều dài 16.053 km (năm 2005) và mật độ đường sắt cao nhất trong Liên minh châu Âu: 120 km trên 1.000 km vuông[25]. Hàng năm đường sắt nước này chuyên chở khoảng 178 triệu hành khách và 100 triệu mét khối hàng hóa. Công ty "Đường sắt Séc" chiếm 99% tổng hành khách vận chuyển bằng đường sắt. Đường bộ của Cộng hòa Séc có trên 6.174 km đường quốc lộ cao tốc hạng nhất (giới hạn tốc độ 130 km/h) nối thủ đô và các thành phố chính như Brno, Plzeň, Příbram... và hòa vào hệ thống đường cao tốc châu Âu tạo thành xương sống của hệ thống đường bộ nước này[26]. Đường bộ cấp thấp hơn có tổng chiều dài 48.778 km[27]. Về đường hàng không, Cộng hòa Séc có khoảng 60 sân bay công cộng trong đó lớn nhất là Sân bay quốc tế Pragua hàng năm đón khoảng 11 triệu lượt khách[28]. Hãng hàng không quốc gia là Czech Airlines có đường bay đến những thành phố lớn ở châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Trung ĐôngBắc Phi. Đường sông chủ yếu tập trung ở ba con sông chính là Labe, Vltava và Berounka với tổng chiều dài khoảng 300 km. Vận tải thủy chiếm từ 2 đến 5% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và có vai trò quan trọng trong thương mại với Đức, BỉHà Lan, ngoài ra nó cũng phục vụ cho du lịch.[29] Giao thông công cộng ở các thành phố lớn cũng khá thuận tiện với các phương tiện chủ yếu là xe bus, tàu điện, ngoài ra thủ đô Prague bắt đầu có tàu điện ngầm từ ngày 9 tháng 5 năm 1974, chiều dài đường tàu điện ngầm khoảng 54 km.[30]
  • Thông tin và truyền thông: Cộng hòa Séc có trên 3,2 triệu thuê bao cố định (2005) và trên 12 triệu thuê bao di động (2006). Số người sử dụng điện thoại di động tăng mạnh từ giữa thập niên 1990 và đến nay đạt 120 thuê bao trên 100 người. Hệ thống thông tin nội địa đã được nâng cấp thiết bị ADSL để tạo điều kiện thuận lợi cho sử dụng Internet và 93% dung lượng trao đổi dưới dạng kỹ thuật số. Để phục vụ viễn thông quốc tế, Cộng hòa Séc có 6 vệ tinh: 2 Intersputnik, 1 Intelsat, 1 Eutelsat, 1 Inmarsat và 1 Globalstar[31]. Cộng hòa Séc có 4 đài truyền hình ở phạm vi toàn quốc và trên 20 đài khu vực trong đó Czech Television, TV Nova và Prima TV là những hãng lớn nhất. Cộng hòa Séc là nước Đông Âu đầu tiên cho phép tư nhân phát sóng truyền hình năm 1994[32]. Nước này cũng có 7 đài phát thanh toàn quốc, 76 đài phát thanh địa phương. Internet khá phát triển với những nhà cung cấp dịch vụ chính là Seznam, Centrum, Atlas, iDnes, Volny và Tiscali.

Văn hóa

Văn học

Sử biên niên Dalimil

Văn học Séc bắt nguồn từ thế kỷ VIII Công Nguyên dưới thời Đại Moravia. Hai anh em Cyril và Methodius đã được vương triều Byzantine cử tới Đại Moravia để truyền bá Đạo Thiên chúa, đồng thời sáng lập ra ngôn ngữ viết Slav đầu tiên: tiếng Slavonic cổ viết trên bảng chữ cái Glogotic, tiền thân của bảng ký tự Cyril sau này.

Sau khi Đại Moravia sụp đổ và được thay thế bởi vương triều Bohemia vào thế kỷ IX, tiếng Latinh đã dần lấn lướt tiếng Slavonic cổ để trở thành ngôn ngữ chính thức trong nền văn học Séc. Bên cạnh đó, tiếng Đức cũng trở thành một ngôn ngữ có tầm ảnh hưởng lớn tại vùng đất này cho đến tận cuối thế kỷ XIX. Vào thế kỷ XIII, dưới triều đại Premyslid của Bohemia, nền văn học Séc đã có những thay đổi đáng chú ý. Những nhà thống trị ở Bohemia bắt đầu tách họ ra khỏi nền văn học Tây Âu lúc đó nói chung và cố gắng xây dựng một nền văn học dân tộc riêng của người Séc. Thời kỳ này văn học Séc được chia làm hai thể loại chính là huyền thoại và sử thi về các anh hùng. Văn xuôi cũng bắt đầu xuất hiện trong thời gian này. Hai tác phẩm đáng chú ý xuất hiện trong giai đoạn này là cuốn từ điển Séc-Latinh và bộ sử biên niên đầu tiên viết bằng tiếng Séc: sử biên niên Dalimil.

Trong thời kỳ chiến tranh tôn giáo Hussite, văn học còn được dùng tranh luận và đả kích giữa các nhóm tôn giáo với nhau. Sự phân hóa rõ rệt thể hiện trên phương diện ngôn ngữ: tiếng Latinh được dùng bởi những người theo đạo Thiên chúa, còn tiếng Séc được dùng bởi những người theo đạo Tin lành. Trận Núi Trắng năm 1620 với thất bại của những người Tin lành đã khiến nền văn học viết bằng tiếng Séc bị ảnh hưởng. Những chính sách đồng hóa dưới thời Đế chế Áo và Đế chế Áo-Hung càng làm cho tiếng Séc có nguy cơ biến mất. Tuy nhiên Thời kỳ Khai sáng trong Đế chế Áo-Hung đã lại tạo điều kiện cho tiếng Séc có cơ hội phát triển, cùng với đó là cả một nền văn học Séc mới. Từ đó đến nay, nền văn học Séc đã trải qua nhiều thăng trầm, biến động và sản sinh ra những tác gia lớn. Franz Kafka, nhà văn gốc Do Thái của Cộng hòa Séc với những tác phẩm viết bằng tiếng Đức, ông được coi là người khơi nguồn cho văn học phi thựcchâu Âu[33]. Năm 1984, Jaroslav Seifert đã trở thành công dân Cộng hòa Séc đầu tiên (lúc đó là Tiệp Khắc) đoạt giải thưởng Nobel về Văn học.

Tôn giáo

Tôn giáo tại Cộng hòa Séc (2011)[34]



Không tôn giáo
  
44.7%
Vô thần
  
34.5%
Công giáo Roma
  
10.5%
Khác
  
6.8%
Phi Cơ đốc giáo
  
1.1%
Tin lành
  
1%
Tín ngưỡng
  
0.7%
Không xác định
  
0.7%

Cộng Hòa Séc, cùng với Estonia, là một trong những nước có tỉ lệ người không tín ngưỡng cao nhất thế giới mặc dù người dân Séc từ xưa đã luôn có thái độ khoan dung đối với tôn giáo. Theo thống kê năm 2001, 59% dân số Cộng hòa Séc không theo một tôn giáo nào, một tỉ lệ khá lớn nếu so sánh với các nước láng giềng như ĐứcBa Lan [35].. Tôn giáo phổ biến nhất tại Cộng hòa Séc là Công giáo, chiếm tỉ lệ 26,8%. Tin Lành chiếm tỉ lệ 2,1%. Trong vòng từ năm 1991 đến năm 2001, tỉ lệ người không có tín ngưỡng tăng 19.1 phần trăm (gần hai triệu người) trong vòng 10 năm. Cơ Đốc Giáo dường như không có dấu hiệu phát triển và số người theo đạo Công giáo giảm một triệu người. Chỉ 19% người dân Séc nói rằng họ tin vào Chúa (ty lệ thấp nhì trong Liên Minh châu Âu sau Estonia với 16%)

Âm nhạc

Trình diễn Polka trên một đường phố Praha

Tại Cộng hòa Séc, giao hưởng và nhạc kịch có một sư liên hệ mật thiết với các vũ khúc dân gian truyền thống của BohemiaMoravia. Một trong những thể loại nhạc độc đáo và đặc trưng nhất của xứ Bohemia là Polka, một loại nhạc nhảy có tiết tấu nhanh và vui nhộn được hình thành vào giữa thế kỷ XIX. Nhạc Polka (tiếng Séc có nghĩa là "cô gái Ba Lan") đã nhanh chóng trở nên thịnh hành không chỉ ở châu Âu mà còn trên khắp thế giới, đồng thời nó cũng trở thành chất liệu để viết giao hưởng của hai nhạc sĩ người ÁoJohann Strauss IJohann Strauss II. Nhạc dân gian Moravia được chơi với nhiều loại nhạc cụ như đại hồ cầm, kèn clarinetviolông. Nhạc Moravia thường biểu hiện những ảnh hưởng từ nước ngoài, đặc biệt là từ RomâniaBa Lan.

Ngày nay, các hình thức âm nhạc hiện đại như pop, rock and roll đang ngày càng trở nên phổ biến. Các bài hát trong tiếng Anh nhiều khi được người Séc đặt lại lời theo tiếng Séc và kết hợp với một vài phong cách truyền thống của họ.

Lễ hội

Đêm vọng Lễ Giáng Sinh ở Thủ đô Praha

Cộng hóa Séc có hai ngày quốc khánh (tức ngày độc lập). Ngày 1 tháng 1 năm 1993 là ngày Cộng hòa Séc tách ra từ Liên bang Tiệp Khắc để trở thành một quốc gia độc lập. Còn ngày quốc khánh thứ hai là 28 tháng 10 năm 1918, ngày mà nhân dân hai nước Séc và Slovakia cùng nhau thành lập Liên bang Tiệp Khắc sau sự sụp đổ của Đế chế Áo-Hung.

Giống với nhiều quốc gia châu Âu khác, Cộng hòa Séc cũng tổ chức những ngày lễ quan trọng của Kitô giáo như Lễ Phục sinh, Lễ Giáng sinh. Vào đêm vọng Lễ Giáng Sinh 24 tháng 12, tất cả các thành phố lớn của Cộng hòa Séc đều được trang hoàng lộng lẫy. Ngày tiếp theo là ngày Giáng Sinh 25 tháng 12. Tiếp đó ngày 26 tháng 12 được gọi là ngày Thánh Stêphanô, được coi như ngày Giáng sinh thứ hai của Cộng hòa Séc.

Bên cạnh đó, Cộng hòa Séc còn là điểm đến của nhiều lễ hội văn hóa quốc tế. Lễ hội Âm nhạc Quốc tế Praha được tổ chức vào mùa xuân hàng năm thu hút rất nhiều các dàn nhạc giao hưởng từ khắp nơi trên thế giới. Bên cạnh đó còn có Liên hoan Phim Quốc tế được tổ chức tại thành phố Karlovy Vary hay các lễ hội bia được tổ chức tại nhiều miền khác nhau của đất nước này.

Ngày Ngày lễ Tên tiếng Séc Chú thích
1 tháng 1 Ngày Quốc khánh của Cộng hòa Séc; Năm mới Den obnovy samostatného českého státu; Nový rok Ngày Quốc khánh của Cộng hòa Séc vào năm 1993, Séc tái độc lập sau khi Tiệp Khắc tan rã
Tháng 3, tháng 4 Lễ Phục sinh Velikonoční pondělí Lễ Phục sinh được tổ chức trong 2 ngày (chủ nhật và thứ hai) tại Cộng hòa Séc
1 tháng 5 Ngày Quốc tế Lao động Svátek práce
5 tháng 7 Ngày Thánh Cyril và Methodius Den slovanských věrozvěstů Cyrila a Metoděje Năm 863, hai nhà truyền giáo Cyril và Methodius đã đến và truyền bá đạo Thiên chúa vào Đại Moravia
6 tháng 7 Ngày Jan Hus Den upálení mistra Jana Husa Nhà cải cách tôn giáo Jan Hus bị hỏa thiêu trên giàn lửa năm 1415
28 tháng 9 Ngày Thánh Wenceslas Den české státnosti Năm 935, Thánh Wenceslas, người được tôn là vị thánh bảo trợ của Séc bị giết hại
28 tháng 10 Ngày Quốc khánh của Tiệp Khắc Den vzniku samostatného československého státu Thành lập Tiệp Khắc năm 1918
17 tháng 11 Ngày Đấu tranh giành tự do, dân chủ Den boje za svobodu a demokracii Cuộc tuần hành của học sinh chống phát xít Đức năm 1939 và cuộc tuần hành năm 1989 khởi đầu Cách mạng Nhung lụa
24 tháng 12 Đêm vọng Lễ Giáng Sinh Štědrý večer
25 tháng 12 Ngày Giáng sinh Svátek vánoční
26 tháng 12 Ngày Thánh Stephen Svátek vánoční Ngày Giáng sinh thứ hai của Cộng hòa Séc

Ẩm thực

Bánh quy Giáng sinh (vánoční cukroví)

Ẩm thực Cộng hòa Séc có ảnh hưởng lớn đến các nền ẩm thực tại khu vực Trung Âu và bản thân nó cũng chịu ảnh hưởng của các nền ẩm thực khác. Nhiều món ăn phổ biến trong khu vực có nguồn gốc và xuất xứ từ đất nước này. Đa phần các món ăn chính của Cộng hòa Séc đều có thịt, gồm thịt lợn, thịt bò và thịt gà. Do không phải một quốc gia giáp biển nên là một món ăn hiếm gặp tại nước này, chủ yếu được dùng nhiều vào dịp Giáng sinh.

Thịt heo hầm với bánh mì hấp và dưa cải muối (tiếng Séc: vepřo-knedlo-zelo) được coi là một trong những món ăn phổ biến nhất của Cộng hòa Séc. Dưa cải muối trong món ăn này có hai cách chế biến khác nhau. Nó được chế biến chua hơn tại Bohemia và ngọt hơn tại Moravia. Thịt bò hầm nấu với sữa (svíčková na smetaně) cũng là một món ăn thịt khá phổ biến. Món ăn này gồm những miếng thịt bò hầm chấm với nước sốt đặc từ sữa, được kèm theo bởi bánh mì hấp, một thìa mứt quả và một lát chanh.

Một số món ăn nhẹ tiêu biểu cho ẩm thực Séc là món bánh kếp rán (bramboráky) được làm từ hỗn hợp khoai tây, bột mì, sữa kèm theo một số gia vị rồi đem rán. Bên cạnh đó, pho mát cũng là một món ăn được ưa chuộng với nhiều chủng loại đa dạng.

Món bánh mì hấp có nhân mứt hoa quả xay nghiền (ovocné knedlíky) được làm từ bột khoai tây nhào trộn và bộc mứt nghiền trái cây, sau đó đem luộc và được dùng với bơ, đường và pho mát. Có rất nhiều loại bánh bọc hoa quả khác nhau được chế biến cùng nhiều loại trái cây đa dạng như dâu tây, đào, anh đào, , mận... Những món ăn này không chỉ đơn thuần được coi như món tráng miệng mà đôi khi được xem là một món ăn chính trong bữa ăn. Trong dịp lễ Giáng sinh, món bánh vánočka sẽ được làm cùng với rất nhiều bánh quy và kẹo ngọt (vánoční cukroví).

Cộng hòa Séc còn là một quốc gia về bia. Nghề làm bia tại Cộng hòa Séc đã có lịch sử lâu đời từ hàng trăm năm nay và được làm chủ yếu từ hoa của cây hublông. Một trong những loại bia của nước này là bia Plzeň (Pilsener), được làm tại thành phố Plzeň (tiếng Đức: Pilsen) ở xứ Bohemia.

Thể thao

Thể thao là một phần không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của người dân Cộng hòa Séc. Hai môn thể thao phổ biến và giành được nhiều sự hâm mộ nhất tại nước này là bóng đáhockey trên băng. Bên cạnh đó, các môn thể thao như bóng rổ, bóng chuyền, bóng ném, điền kinh... cũng rất phổ biến.

Hockey trên băng là một môn thế mạnh của Cộng hòa Séc. Nước này đã từng 1 lần đoạt huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa đông 1998 và 5 lần vô địch giải hockey trên băng toàn thế giới. Bóng đá cũng là một môn thể thao ưa chuộng tại nước này. Trước kia khi còn nằm trong Liên bang Tiệp Khắc, đội tuyển bóng đá quốc gia Tiệp Khắc đã từng hai lần đoạt ngôi vị á quân thế giới (World Cup) và một lần vô địch châu Âu (Euro). Còn hiện nay, đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Séc đã từng đạt ngôi á quân tại Euro 1996. Nước này cũng có tên trong danh sách 16 đội tuyển tham dự vòng chung kết Euro 2008 tại ÁoThụy Sĩ. Theo bảng xếp hạng các đội tuyển bóng đá quốc gia của FIFA (tháng 1 năm 2008), Cộng hòa Séc xếp thứ 6 thế giới[36].

Bên cạnh đó, Cộng hòa Séc còn được biết đến là quê hương của một số tay vợt trong môn tennis như Martina NavratilovaIvan Lendl.

Giáo dục

Giáo dục phổ thông ở Cộng hòa Séc kéo dài từ 12 đến 13 năm, giáo dục tiểu họctrung học cơ sở là bắt buộc. Trẻ em đến trường khi 6 tuổi, kết thúc bậc tiểu học năm 11 tuổi và trung học cơ sở lúc 15 tuổi. Sau đó học sinh có thể học tiếp bậc phổ thông trung học 4 năm hoặc học các trường đào tạo nghề 3 năm. Tốt nghiệp phổ thông trung học hoặc đào tạo nghề, học sinh có thể học lên bậc đại học kéo dài 3 năm. Ở bậc trên đại học, đào tạo thạc sĩ mất từ 2 đến 3 năm; đào tạo tiến sĩ là 3 năm[37]. Hệ thống giáo dục cơ sở của nước này gồm trường công, trường tư và trường tôn giáo (thường ít gặp). Năm học tại Cộng hòa Séc bắt đầu từ ngày 1 tháng 9 hoặc ngày thứ hai đầu tiên của tháng 9 (nếu ngày 1 tháng 9 là thứ bảy hoặc chủ nhật) và kết thúc vào ngày 30 tháng 6 năm sau (hoặc ngày thứ sáu cuối cùng của tháng 6). Học sinh được nghỉ trong những dịp lễ như Giáng sinh, Năm mớiPhục sinh.

Cộng hòa Séc từ lâu là một trong những trung tâm văn hóa, giáo dục quan trọng hàng đầu tại châu Âu. Năm 1348, vua Charles IV (tiếng Séc: Karel IV) đã thành lập trường Đại học Charles tại Praha (Univerzita Karlova). Ngày nay đây vẫn là trường đại học lớn và dẫn đầu về chất lượng giáo dục tại nước này.

Y tế

Cộng hòa Séc chú trọng nâng cao sức khỏe cộng đồng với các chương trình mang tính chất phòng ngừa cũng như tích cực chống lại bệnh ung thư, hút thuốc lá,...Người dân được cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe dựa trên cơ sở bảo hiểm y tế, người bệnh không trực tiếp chi trả tiền chữa bệnh. Dịch vụ y tế có thể được cung cấp bởi cả khu vực công cộng và khu vực tư nhân với chi phí nhìn chung thấp hơn mức bình quân của châu Âu[38].

Xếp hạng quốc tế




DU LỊCH PRAHA – THÀNH PHỐ “VÀNG” CỦA CỘNG HÒA SÉC

Thành phố Praha - nơi được mệnh danh là “ viên kim cương tuyệt duyệt” của Châu Âu. Praha mang trong mình những nét quyến rũ, cổ kính ở mọi góc độ từ lịch sử, văn hóa cho đến kiến trúc và ẩm thực.

Thành phố Praha - nơi được mệnh danh là “ viên kim cương tuyệt duyệt” của Châu Âu. Praha mang trong mình những nét quyến rũ, cổ kính ở mọi góc độ từ lịch sử, văn hóa cho đến kiến trúc và ẩm thực. Trong bài viết này, Etrip4u sẽ gửi đến cho bạn những thông tin về thủ đô Praha và những địa điểm du lịch ở Praha được các du khách trên thế giới yêu thích nhất nhé!

Du lịch Praha

GIỚI THIỆU ĐÔI NÉT VỀ THÀNH PHỐ PRAHA

Praha ( hay còn được gọi là Prague: tiếng Séc) là thủ đô Cộng Hòa Séc và là thành phố lớn nhất quốc gia này. Praha nằm ở phía Tây bên dòng sông thơ mộng Vltava của Séc.

Praha có dân số hơn 1,2 triệu người, đây cũng là một trong những thành phố giàu có nhất Châu Âu. Trong lịch sử, Praha từng là thủ đô của các triều đại phong kiến của Cộng Hòa Séc, đồng thời cũng là thủ đô của Tiệp Khắc từ năm 1918 khi đất nước này chưa tách như bây giờ. Đến năm 1993, Praha là thủ đô chính thức của Cộng Hòa Séc.

Kiến trúc thành phố Praha

Praha nổi tiếng với ngành công nghiệp thực phẩm, đứng đầu là sản xuất bia. Các ngành giao thông vận tải, dịch vụ, thương nghiệp văn hóa cũng đều phát triển mạnh. Thành phố còn là đầu mối giao thông quan trọng của mười tuyến đường sắt, nhiều tuyến đường bộ.

Năm 1992, Trung tâm lịch sử của thành phố Praha đã được UNESCO công nhân là di sản thế giới. Thành phố Praha được đánh giá là một trong những thành phố đẹp nhất Châu Âu với những tòa lâu đài tráng lệ với 347 ngọn tháp, những công trình kiến trúc đầy tính nghệ thuật, những điểm thăm quan vui chơi hấp dẫn và một nền ẩm thực vô cùng phong phú.

DU LỊCH PRAHA VÀO MÙA NÀO TRONG NĂM?

Praha có khí hậu ảnh hưởng của Đại Tây Dương lẫn khí hậu lục địa, được chia làm bốn mùa rõ rệt. Mỗi mùa đều khoác lên mình những nét đẹp riêng, mùa hè nắng nóng và mùa đông lạnh giá, có tuyết rơi.

Mùa xuân ( tháng 3- tháng 5): Mùa xuân cũng là lúc thành phố bừng sức sống, cây cối xanh tươi, những thảm hoa nở rực rỡ khoe sắc, nhiệt độ mát mẻ chỉ khoảng 14 độ C, là thời điểm vô cùng hoàn hảo để du lịch ở Praha. Mùa xuân cũng là dịp diễn ra rất nhiều lễ hội như: Lễ hội Phục Sinh, Lễ hội Bia Séc, Bohemian Carneval,…

Mùa hè (tháng 6 đến tháng 8): là mùa cao điểm du lịch Praha, lúc này khách du lịch đổ về đây rất đông, giá cả dịch vụ tăng. Thời tiết lúc này rất nóng và oi bức, đôi khi có mưa rào, tốt nhất là tránh nên đi du lịch Praha mùa hè.

Praha nhìn từ trên cao

Mùa thu (tháng 9 – tháng 11): Đây là thời điểm tuyệt vời để du lịch Praha. Lúc này cảnh quan thành phố rất đẹp, những con đường được trang hoàng bằng những tán là vàng, đỏ, những chùm mận chín. Có một số sự kiện diễn ra vào mùa thu như: Hội chợ Saint Wenceslas, liên hoan âm nhạc quốc tế mùa thu Prague, sự kiện âm nhạc Bohemia JazzFest,…

Mùa đông (tháng 12 – tháng 2): Mùa đông ở Prague khắc nghiệt với cái lạnh, tuyết phủ trắng những mái nhà ngói đỏ, những con đường dưới thảm tuyết trắng tạo nên khung cảnh đầy lãng mạn. Thời điểm này vô cùng tuyệt vời để du khách đón Giáng Sinh ở đây và thời khắc chuyển giao năm mới, lúc này thành phố được trang hoàng giống như một xứ sở cổ tích vậy. Mùa đông cũng là lúc ít khách du lịch hơn, nên giá phòng sẽ rẻ hơn, nhưng nhiều điểm thăm quan đóng cửa.

DI CHUYỂN ĐẾN PRAHA, SÉC

Sân bay Václav Havel Praha là sân bay thương mại ở Praha, nằm cách trung tâm thành phố khoảng 10 km. Từ Việt Nam hoặc các nước châu Âu bạn có thể đặt vé bay đến sân bay này để đến được Praha. Bạn nên đặt vé máy bay trước 1 tháng để có giá và giờ bay tốt, các hãng hàng không bay đến Praha phổ biến như: Vietnam Airlines, Cathay Pacific, Air France, Thai Airway,…khởi hành từ Hà Nội, Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.

Sân bay Václav Havel Praha

Hiện nay Việt Nam chưa có chuyến bay thẳng đến Praha, bạn sẽ phải chuyển tiếp chuyến bay ít nhất 01 lần để đến được Praha từ Việt Nam. Bạn có thể tự đặt vé đến Praha tại trang web: https://www.etrip4u.com

Giao thông ở thành phố Praha rất thuận tiền, các phương tiện công cộng có vé rất rẻ.

  • Metro, Trams
  • City Bus line
  • Intercity bus line
  • Phà công cộng
  • Một số chuyến tàu chạy vào thành
  • Taxi

Di chuyển bằng Taxi ở Prague khá đắt đỏ, rất dễ bị tính chênh phí, vì tài xế ít khi bật Meter. Bạn nên chọn Uber để đi lại bằng taxi trong thành phố.

NÊN Ở ĐÂU KHI DU LỊCH PRAHA?

Praha có hệ thống khách sạn chất lượng và nhiều loại hình lưu trú giá rẻ khách.

Với dân du lịch bụi, họ hay chọn khu Old Town Square, chỗ này gần với các điểm di chuyển cộng cộng như nhà ga, trạm xe bus

Hostel Franz Kafka là khách sạn có giá rất tốt, mà lại nằm ngay trong khu vực quảng trường, xung quanh có rất nhiều nhà hàng, cửa tiệm nhộn nhịp.

Khách sạn Hotel Dar nằm gần Old Town Square, khách sạn thiết kế theo kiến trúc từ thế kỷ 19, rất cổ kính. Từ phòng khách sạn có thể nhìn ra toàn cảnh những con phố sầm uất ở khu phố cổ Prague. Đây là khách sạn dược đánh giá khá tốt.

Nếu ai đam mê kiến trúc và thích sự độc đáo, nên thử lưu trú ở khách sạn Dancing House, đây là công trình kiến trúc nổi bật nhất của Praha. Khách sạn nằm cách cầu Charles và Bảo tàng Quốc gia chỉ 1km, phòng ngủ có cửa sổ nhìn ra sông và thành phố siêu lãng mạn.

Ngoài ra cách dễ dàng hơn là bạn đặt phòng qua Etrip4u: https://www.etrip4u.com/. Đặt trực tiếp trên trang web này, bạn sẽ được giá phòng ưu đãi

NHỮNG ĐỊA ĐIỂM DU LỊCH NỔI TIẾNG Ở PRAHA

Cầu Karl (Cầu Charles)

Một điểm nổi tiếng thành phố Praha chính là cây cầu Charles, cây cầu bắc qua con sông Vltava. Cầu Karl là biểu tượng của Praha được xây dựng từ năm 1357 theo lối kiến trúc Gothic, với 16 nhịp cầu kèm theo 30 bức tượng tôn giáo vô cùng ấn tượng. Đẹp và ấn tương nhất là bức tượng thánh John of Nepomuk.

Cầu Karl

Trước đây, cây cầu được gọi là cầu đá sau được đổi tên thành cầu Praha, đây là điểm ngắm hoàng hôn và bình minh đẹp nhất của thành phố Praha. Cây cầu xinh đẹp này cũng là nơi mọi người đến để cầu mong cho hạnh phúc và tình yêu của mình được suôn sẻ

Trên cầu diễn ra rất nhiều hoạt động đường phố như cùng nhau ca hát, vẽ hình chân dung, và có những quầy bán đồ lưu niệm hết sức đáng yêu.

Lâu đài Praha (Praha Castle)

Đi qua cây cầu Charles, điểm thăm quan vô cùng háp dẫn tiếp theo đó là lâu đài Prague. Đây là lâu đài lớn nhất thế giới và là một biểu tượng lâu đài của Séc. Lâu đài có diện tích 70.000 mét vuông, tọa lạc trên ngọn đồi, từ đó có thể ngắm được toàn cảnh thành phố. Bên trong lâu đài Praha là kiến trúc tinh tế, cổ kính. Đây cũng là điểm vui chơi ở Praha để bạn có thể tận hưởng không khí trong lành nơi đây.

Lâu đài Praha

Xung quanh lâu đài đều là các điểm du lịch như cửa hàng "Hẻm vàng", Cung điện hoàng gia cổ, nhà, tòa tháp Powder,…

Nhà thờ chính tòa Thánh Vitus

Nhà thờ Thánh Vitus là điểm thu hút rất nhiều khách du lịch. Nhà thờ được xây dựng từ thế kỷ 14 được trang trí bằng các phù điêu đầu tượng. Bên trong nhà thờ có những ngôi mộ được xây dựng rất tinh xảo. Nhà có các nhà nguyện nhà nguyện Thánh Wenceslas với những bức tường đá quý vô cùng nổi bật.

Nhà thờ thánh Vitus

Quảng trường con Gà (Old Town Square)

Old Town Square là một quảng trường lịch sử ở khu phố cổ của Praha, đây là nơi có rất nhiều nhà thờ và đài tưởng niệm đẹp và cổ kính. Bạn sẽ choáng ngợp trước các công trình kiến trúc đặc sắc của các ngôi nhà tại đây, xung quanh quảng trường có rất nhiều cửa hàng và quán ăn ngon.

Quảng trường Con Gà

Đồng hồ thiên văn (Prague Astronomical Clock)

Đây là đồng hồ thiên văn nổi tiếng của thành phố Praha, được lắp đặt vào năm 1410, là đồng hồ thiên văn cổ cổ nhất vẫn còn hoạt động trên thế giới. Đồng hồ thiên văn được ở phía nam của Tòa thị chính Thành Cổ. Nghi lễ báo giờ nổi tiếng của đồng hồ thiên văn này diễn ra từ 9h00 đến 23h00. Cứ cách một giờ, đồng hồ lại báo, 2 cánh cửa nhỏ trên đồng hồ mở ra, 4 bức tượng ở hai bên sẽ chuyển động và 12 tông đồ xuất hiện. Đây là khoảnh khắc vô cùng thú vị và độc đáo nếu bạn có cơ hội chứng kiến.

Đồng hồ thiên văn

Tháp Powder (The Powder Tower)

Tháp Powder thuộc một trong 13 cổng thành ban đầu ở phố cổ. Tòa tháp được điêu khắc rất tinh xảo theo kiến trúc Gothic bởi kiến trúc sư nổi tiếng Matthew Reisek. Tổng chiều cao tòa tháp là 65m, bạn có thể leo lên đài quan sát của ngọn tháp bằng cách vượt qua 186 bậc đá..

Tháp Powder

Nhà thờ Đức mẹ Týn

Nhà thờ Đức mẹ Týn (Chrám Matky Boží před Týnem) là công trình nổi bật nhất trong khu phố cổ. Nhà thờ này nổi bật với ngọn tháp đôi cao 80 mét, với kiến trúc Gothic.Tòa nhà ban đầu của điểm này là một nhà thờ La mã thế kỷ 11, xây dựng để buôn bán giữa các thương nhân nước ngoài đến Tyn Courtyard.

Nhà thờ đức mẹ Týn

Từ thế kỷ 15 đến này, nhà thờ đã được sửa chữa nhiều lần. Nhà thờ bao gồm nhiều ngôi mộ đẹp, cổng thông tin phía Bắc với tác phẩm điêu khắc Crucifixion, những bức tranh bàn thờ thời kỳ Baroque, đặc biệt là chiếc đàn Organ của Châu Âu vào thế kỷ 17.

Bức tường John Lennon

Đây là có lẽ là một trong những những điểm hấp dẫn nhất của Praha. Bức tường Lennon có từ những năm 1980 như một nơi tưởng niệm ca sĩ John Lennon - thủ lĩnh của ban nhạc huyền thoại The Beatles, ông còn là một nhà hoạt động hòa bình tích cực và yêu chuộng tự do. Bức tường này là nơi người hâm mộ của ca sĩ thể hiện sự tiếc thương bằng những bức họa graffiti với hình vẻ, lời bài hát, khẩu hiệu và mọi thứ về Lennon bức tường này.

Bức tường John Lennon

Nhà thờ thánh Nicholas (Kostel svatého Mikuláše)

Nhà thờ St. Nicholas (Kostel svatého Mikuláše) nằm ở khu phố cổ, được xây dụng với kiến trúc Baroque với nội thất lộng lẫy, độc đáo từ thế kỷ 19 và tô điểm bởi những bức tranh Baroque lớn của nghệ sĩ người Séc - Karel Skreta. Nhà thờ cũng có một tháp chuông – nơi có thể ngắm khung cảnh tuyệt vời của nhà thờ và thành phố cổ.

Nhà thờ thánh Nichonas

Quảng trường Wenceslas (Wenceslas Square)

Đây là quảng trường chính nằm ngay trung tâm phố mới của Praha. Quảng trường Wenceslas giống như một đại lộ sôi động và tấp nập với nhiều nhà hàng, cửa tiệm, quán bar, khách sạn, ngân hàng, khiến cho nơi đây trở thành một khu vui chơi giải trí và khu thương mại của thành phố.

Quảng trường Wenceslas

Quảng trường Wenceslas là diễn ra những cuộc biểu tình, lễ kỉ niệm đất nước với đại lộ rộng lớn có sức chứa đến hơn 400.000 người. Quảng trường này cũng là nơi có nhà hát Opera Quốc gia và bảo tàng Quốc gia.

Nhà hát Quốc gia (The National Theatre)

Nếu bạn là ngườu yêu thích nghệ thuật thì Nhà hát Quốc gia Praha là điểm đến không thể bỏ qua khi đi du lịch Praha. Nhà hát nằm bên sông Vltava, là nơi diễn ra các buổi biểu diễn opera, kịch, bale hàng đầu của thành phố Praha. Nhà hát Quốc gia là một biểu tượng của bản sắc văn hóa dân tộc của cộng hòa Séc.

Nhà hát quốc gia

Tòa nhà khiêu vũ (Dancing House)

Ngôi nhà khiêu vũ rất nổi tiếng ở Praha. Ngôi nhà được thiết kế năm 1992 bởi hai kiến trúc sư người Croatia và người Mỹ.

Dancing House

Ngôi nhà có phong cách kiến trúc của Gothic, Baroque và Phục hung vô cùng phóng khoáng. Ngôi nhà khiêu vũ ấn tưởng bởi vẻ đẹp độc đáo, lấy cảm hứng từ một đôi nam nữ đang khiêu vũ. Tầng trên cùng của tòa nhà có góc nhìn rất đẹp ra toàn thành phố

Tháp Petrin (Petrin Tower)

Tháp quan sát Petrin nằm trên đồi Petrin, tháp được làm bằng thép cao 64m. Để lên được toàn cảnh thủ đô Praha, bạn phải đi bộ 300 bậc cầu thang xoắn ốc hoặc bằng thang máy lên đài quan sát của ngọn tháp. Tháp Petrin khánh thành ngày 20/9/1891, là một điểm thu hút rất nhiều khách du lịch của thành phố Praha.

Tháp Petrin

Lâu đài Karlštejn

Lâu đài Karlstejn, cách trung tâm thành phố khoảng 30 km là điểm thăm quan ấn tượng của Praha. Lâu đài Karlstejn là nơi ở của hoàng đế Karl IV và khu cung điện rất hoành tráng. Ngày nay lâu đài vẫn giữ được phong cách trung cổ nguyên bản cho dù trải qua nhiều lần tu sửa

Lâu đài Karlštejn

Dọc theo lối lên lâu đâì, có nhiều hộ kinh doanh du lịch, tạo thành khu phố rất đẹp, đặc trưng của lối kiến trúc Bohemian.

Chợ Việt ở Praha

Hiện có khoảng 90.000 người Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại Praha, do đó mà họ lập nên khu chợ người Việt này để giao lưu và buôn bán những nhiều loại mặt hàng được nhập khẩu từ Việt Nam.

Chợ Việt tại Praha

Khu chợ này được xây dựng theo phong cách người Việt, bạn sẽ bắt gặp các thực phẩm thân thuộc của Việt Nam như tôm cá, gạo, bún, rau củ, nước mắm,…Đây chắc chắn sẽ là địa mua sắm hấp dẫn nhất của người Việt khi đến du lịch Praha, Séc.

NHỮNG MÓN ĂN NGON Ở PRAHA

Praha vốn nổi tiếng là thành phố châu Âu xinh đẹp, cổ kính với rất nhiều thắng cảnh ấn tượng. Không những vậy nơi đây còn hút hồn du khách bởi thiên đường ẩm thực ngon và độc đáo. Nếu có cơ hội ghé thăm Praha, bạn nhất định không nên bỏ lỡ những món ăn đặc sắc dưới đây nhé!

Ẩm thực Praha

Bia Séc

Bia là đồ uống quốc là của cộng hòa Séc, một thức quá quen thuộc với bất kì ai. Bia ở Praha lại mang một sức hấp dẫn rất riêng của Séc đấy. Bia luôn là đồ uống xuất hiện trên menu ở bất cứ nhà hàng nào ở Praha, chỉ với 2 USD, bạn sẽ được thưởng thức một cốc bia khổng lồ ngon hạng nhất thế giới. Ở Praha, bia Pivo là một loại bia truyền thống và nổi tiếng của người Séc.

Súp khoai tây kem Kulaja

Cộng hòa Séc nổi tiếng với những loại súp và sốt vô cùng tuyệt vời. Súp kulaja là món súp truyền thống của đất nước này, bạn có thể tìm thấy nó tại rất nhiều của hàng ở Praha. Đây là món súp khoai tây kem với nấm, giấm, thì là, một quả trứng luộc bên trên, ăn vô cùng béo ngậy và thơm.

Xúc xích Vienna

Người Séc yêu thích món xích xích và nó cũng rất hợp để uống bia. Nếu muốn thưởng thức xúc xích Vienna chuẩn thì hãy ghé thăm Nase maso ở thủ đô Praha. Ở đây có món xúc xích cổ điển với một miếng thịt bò và một miếng xúc xích trên đĩa, ăn với mù tạt và bánh mì.

Sandwich Chlebíčky

Đây là món bánh sandwich một mặt của Séc và cũng là món ăn vô cùng nổi tiếng trên thế giới. Những chiếc bánh mì sandwich kẹp với đồ mặn như xúc xích, giăm bông, sốt cá trích, sốt mayonnaise, rau… trông vô cùng hấp dẫn.

Bánh Kolache

Koláč là một loại bánh ngọt rất mềm, có nhân mứt, trái cây và các loại hạt. Du khách có thể tìm thấy Kolache ở hầu hết các tiệm bánh ở Praha với hương vị đa dạng. Món bánh ngọt này kết hợp với café là tuyệt vời nhất.

Ttrdelník

Đây là món ăn vặt rất phổ biến ở các quán ăn đường phố của Praha. Ttrdelník là một món bánh cuộn có màu nâu nhạt, phủ một lớp đường hoặc quế bên ngoài. Dọc đường phố Prague, bạn sẽ được tận mắt thấy người bán chế biến món bánh Ttrdelník này tại quầy và thưởng thức ngay tại đó rất thú vị.

Praha thực sự là một thành phố cuốn hút với lịch sử và kiến trúc. Đó là một thành phố bạn chắc chắn sẽ muốn tiếp tục quay để khám phá nhiều hơn nữa. Bài viết này Etrip4u hi vọng bạn sẽ có thêm được nhiều kinh nghiệm và thông tin cho chuyến đi đến Praha sắp tới của mình!